Đái tháo đường týp 2 là gì? Các công bố khoa học về Đái tháo đường týp 2

Đái tháo đường type 2 (hay còn gọi là tiểu đường type 2) là một loại bệnh tiểu đường không phụ thuộc vào insulin. Đái tháo đường type 2 thường xảy ra khi cơ thể...

Đái tháo đường type 2 (hay còn gọi là tiểu đường type 2) là một loại bệnh tiểu đường không phụ thuộc vào insulin. Đái tháo đường type 2 thường xảy ra khi cơ thể không sử dụng insulin đúng cách (kháng insulin) hoặc không sản xuất đủ insulin để duy trì mức đường huyết bình thường. Bệnh này thông thường phát hiện ở người trưởng thành và có nguy cơ cao xuất hiện ở những người có tiền sử gia đình mắc bệnh tiểu đường. Đái tháo đường type 2 thường có liên quan đến lối sống không lành mạnh, bao gồm chế độ ăn uống không hợp lý, thiếu tập luyện và tăng cân.
Đái tháo đường type 2 là một bệnh lý mà mức đường huyết của cơ thể (đường glucose) tăng lên do cơ thể không sử dụng và/hoặc sản xuất insulin một cách hiệu quả. Insulin là một hormone được tiết ra bởi tuyến tụy, giúp đưa glucose từ máu vào tế bào cơ, mỡ và gan để sử dụng làm năng lượng. Khi cơ thể không phản ứng tốt với insulin, mức đường huyết sẽ tăng lên.

Các yếu tố gây nguy cơ đái tháo đường type 2 bao gồm:

1. Tăng cân và béo phì: Các tế bào mỡ trong cơ thể có thể gây kháng insulin, làm tăng nguy cơ đái tháo đường type 2.

2. Di truyền: Có yếu tố di truyền trong một số trường hợp, tức là có người trong gia đình đã mắc bệnh tiểu đường type 2.

3. Tuổi: Nguy cơ bị đái tháo đường type 2 tăng lên khi người ta già đi, do quá trình lão hóa và suy giảm hoạt động của tuyến tụy.

4. Một số bệnh lý khác: Những bệnh như huyết áp cao, cholesterol cao, bệnh tim mạch và hội chứng buồng trứng đa nang cũng làm tăng nguy cơ mắc đái tháo đường type 2.

Để điều trị đái tháo đường type 2, thường yêu cầu thay đổi lối sống, bao gồm ăn uống lành mạnh, tập thể dục đều đặn và giảm cân nếu cần thiết. Một số trường hợp cần dùng thuốc hoặc insulin để điều chỉnh mức đường huyết. Bệnh nhân cũng cần theo dõi mức đường huyết thường xuyên để đảm bảo đái tháo đường được kiểm soát.
Đái tháo đường type 2 là bệnh tiểu đường phổ biến nhất và chiếm khoảng 90-95% trên tổng số trường hợp tiểu đường. Bệnh này thường xuất hiện ở người trưởng thành, nhưng ngày càng có nhiều trẻ em và thanh thiếu niên bị mắc bệnh này do tăng cân và lối sống không lành mạnh.

Cơ chế phát triển bệnh đái tháo đường type 2 liên quan đến kháng insulin và thiếu insulin. Ban đầu, cơ thể bị kháng insulin, có nghĩa là các tế bào mô mỡ, cơ và gan không phản ứng hiệu quả với insulin. Do đó, mặc dù tuyến tụy tiết ra insulin, glucose không thể đi vào các tế bào để tạo năng lượng.

Theo thời gian, tuyến tụy có thể không sản xuất đủ insulin để đáp ứng nhu cầu của cơ thể, dẫn đến bệnh tiểu đường. Đái tháo đường type 2 có thể tiến triển chậm và không có triệu chứng rõ ràng trong giai đoạn đầu.

Các yếu tố nguy cơ gây ra đái tháo đường type 2 bao gồm:
- Tuổi: Nguy cơ mắc bệnh tăng lên khi người ta già đi.
- Tăng cân và béo phì: Một lượng mỡ cơ thể quá cao có thể gây kháng insulin.
- Di truyền: Có yếu tố di truyền trong một số trường hợp, tức là có người trong gia đình đã mắc bệnh tiểu đường type 2.
- Hormone: Những thay đổi hormone trong cơ thể có thể ảnh hưởng đến khả năng sử dụng insulin.
- Lối sống không lành mạnh: Ẩn số thức ăn không lành mạnh, thiếu hoạt động thể chất, căng thẳng, thiếu giấc ngủ và hút thuốc có thể tăng nguy cơ mắc bệnh.

Đái tháo đường type 2 có thể được kiểm soát thông qua việc điều chỉnh lối sống, chế độ ăn uống lành mạnh, tập thể dục đều đặn và giảm cân nếu cần thiết. Nếu cần thiết, thuốc hoặc insulin có thể được sử dụng để giúp duy trì mức đường huyết ổn định. Việc theo dõi đường huyết và kiểm tra định kỳ là rất quan trọng để kiểm soát bệnh tốt hơn và tránh biến chứng.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "đái tháo đường týp 2":

Bệnh sinh học của Đái tháo đường loại 2 Dịch bởi AI
International Journal of Molecular Sciences - Tập 21 Số 17 - Trang 6275

Đái tháo đường loại 2 (T2DM), một trong những rối loạn chuyển hóa phổ biến nhất, được gây ra bởi sự kết hợp của hai yếu tố chính: sự tiết insulin bị lỗi bởi các tế bào β tụy và khả năng đáp ứng không đầy đủ của các mô nhạy cảm với insulin. Vì sự phóng thích và hoạt động của insulin là các quá trình thiết yếu cho sự cân bằng glucose, các cơ chế phân tử liên quan đến việc tổng hợp và phóng thích insulin, cũng như trong việc phát hiện insulin được điều chỉnh một cách chặt chẽ. Sự thiếu hụt trong bất kỳ cơ chế nào liên quan đến các quá trình này có thể dẫn đến sự mất cân bằng chuyển hóa chịu trách nhiệm cho sự phát triển của bệnh. Bài tổng quan này phân tích các khía cạnh chính của T2DM, cũng như các cơ chế và con đường phân tử liên quan đến chuyển hóa insulin dẫn đến T2DM và kháng insulin. Để thực hiện điều đó, chúng tôi tóm tắt các dữ liệu thu thập được cho đến nay, tập trung đặc biệt vào sự tổng hợp insulin, phóng thích insulin, nhận diện insulin và các tác động sau đó đến các cơ quan nhạy cảm với insulin riêng lẻ. Bài tổng quan cũng đề cập đến các tình trạng bệnh lý kéo dài T2DM như các yếu tố dinh dưỡng, hoạt động thể chất, rối loạn vi sinh vật đường ruột và trí nhớ chuyển hóa. Thêm vào đó, vì T2DM liên quan đến sự phát triển xơ vữa động mạch gia tốc, chúng tôi xem xét một số cơ chế phân tử liên kết T2DM và kháng insulin (IR) cũng như nguy cơ tim mạch như một trong những biến chứng quan trọng nhất trong T2DM.

Dapagliflozin và Kết Quả Tim Mạch ở Bệnh Nhân Đái Tháo Đường Tuýp 2 và Tiền Sử Nhồi Máu Cơ Tim Dịch bởi AI
Ovid Technologies (Wolters Kluwer Health) - Tập 139 Số 22 - Trang 2516-2527 - 2019
Nền tảng:

Các chất ức chế đồng vận chuyển natri-glucose loại 2 (SGLT-2) làm giảm nguy cơ các biến cố tim mạch bất lợi lớn (MACE) ở bệnh nhân đái tháo đường tuýp 2 có tiền sử bệnh tim mạch do xơ vữa. Do có nguy cơ nền cao, bệnh nhân có tiền sử nhồi máu cơ tim (MI) có thể thu được lợi ích lớn hơn từ liệu pháp ức chế SGLT-2.

Phương pháp:

DECLARE-TIMI 58 (Tác động của Dapagliflozin đến Các Biến Cố Tim Mạch–N thrombolysis ở Nhồi Máu Cơ Tim 58) đã phân nhóm ngẫu nhiên 17.160 bệnh nhân đái tháo đường tuýp 2 có bệnh tim mạch do xơ vữa đã được xác định (n=6974) hoặc nhiều yếu tố nguy cơ (n=10.186) sử dụng dapagliflozin so với giả dược. Hai điểm đầu tiên chính là sự kết hợp của MACE (tử vong tim mạch, MI hoặc đột quỵ do thiếu máu cục bộ) và sự kết hợp của tử vong tim mạch hoặc nhập viện do suy tim. Những bệnh nhân có tiền sử MI (n=3584) là một phân nhóm được xác định trước mà chúng tôi quan tâm.

Kết quả:

Ở bệnh nhân có tiền sử MI (n=3584), dapagliflozin làm giảm nguy cơ tương đối của MACE 16% và nguy cơ tuyệt đối 2.6% (15.2% so với 17.8%; tỷ lệ nguy cơ [HR], 0.84; 95% CI, 0.72–0.99; P =0.039), trong khi không có tác dụng nào ở bệnh nhân không có tiền sử MI (7.1% so với 7.1%; HR, 1.00; 95% CI, 0.88–1.13; P =0.97; P cho sự tương tác về sự chênh lệch tương đối=0.11; P cho sự tương tác về sự chênh lệch nguy cơ tuyệt đối=0.048), bao gồm cả ở những bệnh nhân có bệnh tim mạch do xơ vữa đã xác định nhưng không có tiền sử MI (12.6% so với 12.8%; HR, 0.98; 95% CI, 0.81–1.19). Dường như có lợi ích lớn hơn đối với MACE trong vòng 2 năm sau sự kiện cấp tính cuối cùng ( P cho xu hướng tương tác=0.007). Những giảm nguy cơ tương đối trong tử vong tim mạch/nhập viện do suy tim tương tự hơn, nhưng sự giảm nguy cơ tuyệt đối có xu hướng lớn hơn: 1.9% (8.6% so với 10.5%; HR, 0.81; 95% CI, 0.65–1.00; P =0.046) và 0.6% (3.9% so với 4.5%; HR, 0.85; 95% CI, 0.72–1.00; P =0.055) ở bệnh nhân có và không có tiền sử MI, tương ứng ( P tương tác cho sự chênh lệch tương đối=0.69; P tương tác cho sự chênh lệch nguy cơ tuyệt đối=0.010).

Kết luận:

Bệnh nhân đái tháo đường tuýp 2 và tiền sử MI có nguy cơ cao về MACE và tử vong tim mạch/nhập viện do suy tim. Dapagliflozin dường như làm giảm một cách hiệu quả nguy cơ cả hai kết quả kết hợp này ở những bệnh nhân này. Các nghiên cứu trong tương lai nên xác nhận những lợi ích lâm sàng lớn mà chúng tôi quan sát được với các chất ức chế SGLT-2 ở bệnh nhân có tiền sử MI.

Đăng ký Thử nghiệm Lâm sàng:

URL: https://www.clinicaltrials.gov . Mã nhận dạng duy nhất: NCT01730534.

#Dapagliflozin #Đái tháo đường tuýp 2 #Nhồi máu cơ tim #Kết quả tim mạch #Biến cố tim mạch bất lợi lớn (MACE)
Nuciferine cải thiện tình trạng gan nhiễm mỡ ở chuột đái tháo đường do chế độ ăn giàu chất béo/kết hợp streptozocin thông qua con đường PPARα/PPARγ coactivator‐1α Dịch bởi AI
British Journal of Pharmacology - Tập 175 Số 22 - Trang 4218-4228 - 2018
Bối cảnh và Mục đích

Nuciferine, một alkaloid có trong lá cây Nelumbo nucifera, làm giảm rối loạn lipid máu trong cơ thể sống. Tuy nhiên, liệu nó có cải thiện tổn thương gan trong điều kiện mắc bệnh tiểu đường và cơ chế tiềm ẩn ra sao thì vẫn chưa rõ. Nghiên cứu hiện tại nhằm điều tra tác động của nuciferine lên chuyển hóa lipid và glucose trong mô hình chuột mắc bệnh đái tháo đường type 2 (T2DM) và xác định các cơ chế tiềm ẩn của những tác động này.

Phương pháp Thực nghiệm

Một mô hình chuột T2DM đã được thiết lập bằng cách cho ăn chế độ ăn giàu chất béo (HFD) kết hợp với tiêm streptozocin (STZ), và chuột tiểu đường được điều trị với nuciferine trong thức ăn. Cơ chế tiềm ẩn của tác dụng chống gan nhiễm mỡ của nuciferine đã được thăm dò thêm trong tế bào gan HepG2 nuôi cấy với axit palmitic. Các hồ sơ tín hiệu chính tham gia vào quá trình oxy hóa axit béo sau đó đã được đánh giá, sử dụng kỹ thuật Western blot, RT-qPCR và si-RNA, cùng với hóa mô miễn dịch.

Kết quả Chính

Nuciferine khôi phục khả năng dung nạp glucose bị suy giảm và đề kháng insulin ở chuột tiểu đường. Nồng độ cholesterol toàn phần, triglyceride và LDL trong gan đã giảm, cùng với số lượng giọt lipid, nhờ điều trị bằng nuciferine. Hơn nữa, nuciferine đã tăng cường các gen liên quan đến β-oxy hóa trong gan của chuột tiểu đường. Thí nghiệm phân tích tế bào sử dụng gen báo cáo luciferase cho thấy nuciferine đã trực tiếp đảo ngược sự ức chế hoạt động phiên mã của PPARα do axit palmitic gây ra. Việc làm im lặng biểu hiện của PGC1α trong tế bào HepG2 đã ngăn cản các tác dụng của nuciferine trong việc thúc đẩy quá trình β-oxy hóa.

Kết luận và Ý nghĩa

Nuciferine đã cải thiện hồ sơ lipid và làm giảm gan nhiễm mỡ ở chuột tiểu đường bị gây ra do HFD/STZ bằng cách kích hoạt con đường PPARα/PGC1α. Nuciferine có thể là một ứng cử viên quan trọng tiềm ẩn trong việc cải thiện gan nhiễm mỡ và quản lý T2DM.

#Nuciferine #Gan nhiễm mỡ #Đái tháo đường type 2 #PPARα #PGC1α #Chế độ ăn giàu chất béo #Streptozocin #β-oxy hóa #
Tăng Đường Huyết Sau Bữa Ăn ở Bệnh Nhân Đái Tháo Đường Loại 2 Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 1 - Trang 105-116 - 2012
Vai trò của tăng đường huyết sau bữa ăn (PPHG) trong bệnh đái tháo đường đang ngày càng được công nhận. PPHG được biết có sự đóng góp vào việc gia tăng nguy cơ gặp các biến chứng vi mạch và đại mạch ở bệnh nhân mắc bệnh đái tháo đường. Bài tổng quan này xem xét ý nghĩa lâm sàng của PPHG và các phương pháp điều trị hiện có. Nguyên nhân của PPHG chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố bao gồm sự gia tăng nhanh chóng của glucose từ ruột, sự tiết insulin kém, sản xuất glucose nội sinh từ gan và kháng insulin ngoại vi. Nắm bắt được sinh lý bệnh của PPHG là điều thiết yếu khi áp dụng các lựa chọn điều trị để giải quyết vấn đề này. Mặc dù hầu hết các loại thuốc giảm đường huyết đường uống và insulin đều làm giảm cả nồng độ glucose huyết ổn định và sau bữa ăn, nhưng hiện nay đã có các loại thuốc chuyên biệt tác động để kiểm soát PPHG. Những thuốc này có thể được phân loại dựa vào vị trí tác động của chúng. Các chất ức chế α-glucosidase như acarbose và miglitol làm giảm tốc độ hấp thu sucrose bằng cách tác động lên các enzyme ở lòng ruột. Các tác dụng phụ của các tác nhân này chủ yếu là liên quan đến đường tiêu hóa. Các tác nhân tiết insulin mới đã được phát triển, cố gắng bắt chước sự giải phóng insulin sinh lý và do đó cải thiện PPHG. Bao gồm các sulfonylurea thế hệ thứ ba như glimepiride và các tác nhân tiết insulin không phải sulfonylurea như repaglinide và nateglinide. Các analog insulin tác động nhanh, có chuỗi amino acid đã được thay đổi để có tác dụng nhanh hơn, giúp nhắm mục tiêu cụ thể đến PPHG. Các dạng phối hợp tiền chế của các analog này cũng đã được phát triển. Cuối cùng, các loại thuốc đang được phát triển có hứa hẹn trong việc quản lý bệnh nhân bị PPHG bao gồm pramlintide, một analog amylin, và glucagon-like peptide-1 cùng với các analog của nó.
#Tăng đường huyết sau bữa ăn #bệnh đái tháo đường type 2 #liệu pháp điều trị #sinh lý bệnh #insulin.
Nghiên cứu Dịch tễ học Dựa cộng đồng về Bệnh Sỏi Mật ở Bệnh nhân Đái tháo đường type 2 tại Kim Môn, Đài Loan Dịch bởi AI
Digestive Diseases - Tập 22 Số 1 - Trang 87-91 - 2004

<i>Bối cảnh:</i> Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tỷ lệ lưu hành và các yếu tố nguy cơ liên quan đến bệnh sỏi mật (GSD) ở bệnh nhân đái tháo đường type 2 tại Kim Môn, Đài Loan. <i>Phương pháp:</i> Dựa trên tổng số 858 bệnh nhân đái tháo đường type 2 được xác định trong khoảng thời gian 1991–1993, một cuộc sàng lọc bằng siêu âm đã được thực hiện bởi một nhóm chuyên gia vào năm 2001. Tổng cộng có 440 (51,3%) đối tượng đã được kiểm tra. <i>Kết quả:</i> Sáu mươi ba trong số 440 bệnh nhân đái tháo đường type 2 được chẩn đoán mắc GSD. Tỷ lệ lưu hành chung của GSD là 14,4%, trong đó sỏi đơn 8,0% (n = 35), sỏi nhiều 3,2% (n = 14), và phẫu thuật cắt túi mật 3,2% (n = 14). Các yếu tố nguy cơ đáng kể của GSD dựa trên phân tích hồi quy logistic đa biến là tuổi (OR = 1,06, 95% CI: 1,02–1,10) và chỉ số khối cơ thể (BMI) (OR = 1,11, 95% CI: 1,01–1,22). <i>Kết luận:</i> Kết quả của chúng tôi cho thấy tuổi cao và BMI cao có thể làm tăng nguy cơ phát triển GSD ở bệnh nhân đái tháo đường type 2.

#bệnh sỏi mật #đái tháo đường type 2 #epidemiology #yếu tố nguy cơ #sàng lọc siêu âm
PHÂN TÍCH CHI PHÍ TRỰC TIẾP Y TẾ TRONG ĐIỀU TRỊ ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYPE 2 TẠI BỆNH VIỆN QUẬN 8 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH GIAI ĐOẠN 2019-2021
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 514 Số 1 - Trang - 2022
Mục tiêu: Nghiên cứu thực hiện nhằm phân tích chi phí trực tiếp y tế trong điều trị đái tháo đường type 2 tại Bệnh viện Quận 8 thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2019-2021. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, thu thập dữ liệu của toàn bộ các lượt điều trị đái tháo đường type 2 tại Bệnh viện Quận 8 trong giai đoạn 2019-2021. Số liệu được tổng hợp, sau đó xử lý và phân tích bằng vào Excel. Kết quả: Trong giai đoạn 2019-2021, nghiên cứu ghi nhận tổng số lượt điều trị bệnh đái tháo đường type 2 tại Bệnh viện Quận 8 là 28.002 lượt có BHYT, trong đó, số lượt điều trị ngoại trú là 27.538, chiếm 98,3%. Mẫu nghiên cứu có tuổi trung bình là 60,15 (±13,12) tuổi. Kết quả phân tích ghi nhận chi phí trung bình cho một lượt điều trị nội trú là 3.694.295 ± 3.136.003 đồng và chi phí cho một lượt điều trị ngoại trú là 462.588 ± 238.392 đồng. Tổng chi phí trực tiếp y tế của mẫu nghiên cứu là 14,4 tỷ đồng, với chi phí thuốc và chi phí xét nghiệm chiếm tỷ lệ cao, lần lượt là 69,4% và 13,5%. Toàn bộ người bệnh điều trị nội trú đều có bệnh kèm, có tỷ lệ nữ cao hơn, và có tuổi trung bình lớn hơn người bệnh điều trị ngoại trú. Kết luận: Kết quả nghiên cứu cho thấy trong trường hợp người bệnh nội trú, chi phí cho một đợt điều trị là không nhỏ, tạo một gánh nặng kinh tế nhất định cho người bệnh và hệ thống y tế. Do đó, để giảm gánh nặng điều trị bệnh, người dân cần bắt đầu bằng việc duy trì lối sống và chế độ ăn lành mạnh, thường xuyên luyện tập thể dục, và tiếp cận sớm với các dịch vụ y tế trong chăm sóc cho người bệnh đái tháo đường.
#Chi phí điều trị trực tiếp y tế #Đái tháo đường type 2 #Bệnh viện Quận 8
Tình trạng dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan của người bệnh đái tháo đường type 2 điều trị tại Bệnh viện Nội tiết Trung ương năm 2020
Nghiên cứu cắt ngang trên 255 người bệnh đái tháo đường type 2 từ 20 - 70 tuổi điều trị tại Khoa Dinh dưỡng lâm sàng & tiết chế, Bệnh viện Nội tiết Trung ương. Kết quả cho thấy tình trạng dinh dưỡng bình thường theo BMI là 62,0%; thừa cân, béo phì (TC, BP) là 33,3%; thiếu năng lượng trường diễn là 4,7%. Một số yếu tố liên quan tới tình trạng thừa cân, béo phì có ý nghĩa thống kê (p < 0,05): nhóm tập thể dục không đạt so với khuyến nghị có nguy cơ thừa cân, béo phì cao gấp 2,46 (95%CI: 1,4 - 4,2) lần so với nhóm tập thể dục đạt; nhóm có tốc độ ăn chậm có nguy cơ bị thừa cân, béo phì chỉ bằng 0,12 (95%CI: 0,2 - 0,9) lần so với nhóm ăn nhanh; nhóm có mức độ ăn hơi đói có nguy cơ thừa cân, béo phì chỉ bằng 0,32 (95%CI: 0,1 - 0,7) lần so với nhóm có mức độ ăn no; Khẩu phần dư thừa năng lượng; Tỷ lệ protein khẩu phần > 20%;  tỷ lệ lipid trong khẩu phần > 30% và lượng cholesterol khẩu phần ≥ 300 mg là yếu tố nguy cơ dẫn đến thừa cân, béo phì.
#yếu tố liên quan #tình trạng dinh dưỡng #đái tháo đường #Bệnh viện Nội tiết Trung ương
Tình trạng dinh dưỡng và đặc điểm khẩu phần của người bệnh đái tháo đường type 2 tại Bệnh viện Đa khoa Xanh pôn năm 2019 - 2020
Nghiên cứu mô tả cắt ngang tiến hành trên 232 người bệnh đái tháo đường type 2 tại Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn với mục tiêu mô tả tình trạng dinh dưỡng và đặc điểm khẩu phần ăn. Kết quả cho thấy chỉ số BMI trung bình 22,3 ± 3,1 kg/m2, tỷ lệ người bệnh gầy là 8,6%, thừa cân béo phì là 19,4%, tỷ lệ nữ có chu vi vòng eo cao (63,9%) cao hơn ở nam, có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Tỷ lệ người bệnh có tỷ số VE/VM cao là 95,3%. Năng lượng trung bình của nam là 1894,7 ± 811,4 kcal/ngày và của nữ là 1461 ± 477,6 kcal/ngày. Tỷ lệ các chất sinh năng lượng Protein: Lipid: Glucid tương ứng của nam và nữ lần lượt là 18,8: 27,3: 53,6 và 17,5: 25,1: 56,6 khá cân đối với nhu cầu dinh dưỡng khuyến nghị. Canxi còn thiếu so với nhu cầu dinh dưỡng khuyến nghị cho người trưởng thành năm 2016.
#tình trạng dinh dưỡng #đái tháo đường #khẩu phần #Bệnh viện đa khoa Xanh Pôn.
TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA NGƯỜI BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYPE 2 ĐƯỢC QUẢN LÝ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH HÀ NAM NĂM 2021-2022
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 63 Số 4 - 2022
Nghiên cứu mô tả cắt ngang tiến hành trên 421 người bệnh ĐTĐ type 2 từ ≥ 20 tuổi tại Bệnh việnĐa khoa tỉnh Hà Nam. Mục tiêu: Mô tả tình trạng dinh dưỡng (TTDD) và một số yếu tố liên quan.Phương pháp: Cắt ngang mô tả. Kết quả: Đánh giá theo phân loại của Văn phòng Tổ chức Y tế thếgiới khu vực Tây Thái Bình Dương (WPRO) kết quả cho thấy tỷ lệ đối tượng nghiên cứu có TTDDbình thường theo BMI là 46,8%; thừa cân, béo phì (TCBP) là 53,2%. Tỷ lệ thừa cân, béo phì (TCBP)ở nam giới là 56,3% cao hơn so với nữ giới 49,7%. Một số yếu tố liên quan tới tình trạng TCBP cóý nghĩa thống kê (p < 0,05): Nhóm vòng eo/vòng mông cao có nguy cơ TCBP cao gấp 2,55 (95%CI:1,08 – 6,05) lần so với nhóm vòng eo/vòng mông bình thường. Nhóm kinh tế khá/giàu có nguy cơTCBP cao gấp 3,04 (95%CI: 2,04 – 4,55) lần so với nhóm kinh tế nghèo/trung bình.
#Đái tháo đường #tình trạng dinh dưỡng #Bệnh viện tỉnh Hà Nam.
Thực trạng tuân thủ điều trị của người bệnh đái tháo đường tuýp 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Tuệ Tĩnh
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG - Tập 6 Số 02 - Trang 132-140 - 2023
Mục tiêu: mô tả thực trạng tuân thủ điều trị của người bệnh đái tháo đường type 2 đang điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Tuệ Tĩnh. Đối tượng và phương pháp: Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện từ tháng 02/2022 đến tháng 12/2022 tại Bệnh viện Tuệ Tĩnh. Đối tượng nghiên cứu là 200 người bệnh > 18 tuổi, được chẩn đoán đái tháo đường tuýp 2 đang điều trị ngoại trú, có khả năng giao tiếp đủ để trả lời phỏng vấn và đồng ý tham gia nghiên cứu. Sử dụng phương pháp tự điền để thu thập thông nghiên cứu. Kết quả: Cụ thể, tỷ lệ NB thực hành tuân thủ cả 04 chế độ chỉ chiếm tỷ lệ 29,5%. Trong đó tỷ lệ NB tuân thủ chế độ dinh dưỡng chiếm tỷ lệ cao nhất 64%; có 62,5% NB tuân thủ hoạt động thể lực. Tỷ lệ NB tuân thủ xét nghiệm đường huyết và tái khám định kì chiếm tỷ lệ thấp nhất chỉ có 22,5%. Kết luận: tỷ lệ người bệnh tuân thủ điều trị còn thấp, do vậy cần nghiên cứu các giải pháp để giúp người bệnh tuân thủ điều trị tốt hơn.
#Tuân thủ điều trị #đái tháo đường #điều trị ngoại trú
Tổng số: 410   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10